BÃO
Nguy cơ và ảnh hưởng của bão, lụt
Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng của thiên tai khá thường xuyên trên thế giới. Thông thường, các đợt thiên tai lớn cứ tối thiểu 10 năm xảy ra 1 lần. Có một thực tế là, thiên tai ngày càng khốc liệt và sự thay đổi khí hậu cũng làm cho thiên tai ngày càng khốc liệt hơn: cơn lũ năm 1999 đổ bộ vào miền Trung Việt Nam đã để lại một dấu ấn đậm trong trí nhớ người dân; các gia đình vẫn tiếp tục nói đến những mất mát, tổn thất lớn năm 1997 khi cơn bão Linda xảy ra phá sập 300 000 ngôi nhà và làm hư hại hàng trăm ngôi nhà. Vào đầu thế kỷ 1, những cơn bão và lũ lớn không còn là điều mới mẻ nữa, nó xảy đến với người dân hằng năm.
Hàng năm, vùng ven biển miền Trung Việt Nam thường hứng chịu nhiều cơn bão kèm lũ lụt, trung bình từ 4 - 6 cơn / năm. Thiên tai gây ra những thiệt hại trên diện rộng và lập đi lập lại đối với nhà ở và cơ sở hạ tầng cũng như thiệt hại về nông nghiệp và ngư nghiệp. Những mất mát này ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng của gia đình và cộng đồng trong việc phát triển và thoát nghèo. Trong quá trình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, mức độ tổn thất kinh tế đã từng bước leo thang kể từ năm 1985, và đạt đến hơn 700 triệu USD năm 1996.
Mười năm sau, chỉ với một cơn bão, cơn bão số 6 Xangsane năm 2006 tổn thất ước tính lên đến 10,375 tỉ đồng Việt Nam (khoảng 650 triệu đôla Mỹ), tương đương với tổng số thiệt hại hằng năm trong 10 năm vừa qua. Quá trình cứu trợ cho bà con cũng được quan tâm đến - chỉ có 69 người chết trong bão - nhưng chi phí cho việc tái thiết là rất lớn và người dân chưa được cứu trợ một cách rộng rãi.
Khi đang khó khăn bảo vệ miền Trung Việt Nam trước những thiệt hại do bão gây ra năm 1985 và 1997, có thể và nên phòng tránh trên diện rộng những thiệt hại do bão gây ra ngày càng thường xuyên. Điều này có thể thực hiện được với chi phí kinh tế-xã hội thấp hơn so với việc tái xây dựng. Bằng cách nào?
Bằng cách áp dụng những phương pháp gia cố nhà ở phòng chống bão để ngôi nhà có thể chống chịu được trước bão, gió lớn và lụt .